Nội dung khiếu nại và kết quả giải quyết khiếu nại
lần đầu như sau:
Ngày 22/5/2015, ông Ngô Minh Tân có đơn khiếu nại
gửi UBND huyện Tuy An đề nghị giải quyết việc bồi thường đất, công trình trên đất (quán cơm Tân Mai) bị ảnh hưởng dự án: Mở rộng,
nâng cấp Quốc lộ 1 năm 2014 với 03 nội dung như sau: Bồi thường 150m2
đất trong 523,6m2 đất
bị ảnh hưởng Dự án, vì đất này do Ông nhận chuyển nhượng từ ông Trần Tám vào
năm 1993 (có giấy viết tay không có chính quyền địa phương xác nhận) để xây
dựng quán cơm; Hỗ trợ công trình trên đất theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều
22 Quyết định số 10/2013/QĐ-UBND ngày 23/4/2013 của UBND tỉnh Phú Yên; Hỗ trợ
chi phí đầu tư vào đất (nâng cấp bãi đậu xe).
Ngày 17/9/2015, Chủ tịch UBND huyện Tuy An ban hành Quyết định số
1168/QĐ-CT giải quyết khiếu nại, có nội dung: Không công nhận nội dung đơn khiếu nại của ông Ngô Minh Tân, vì không có cơ sở và không phù hợp theo
quy định của pháp luật. Không đồng ý với nội dung Quyết định giải quyết của Chủ
tịch UBND huyện Tuy An, ngày 10/10/2015 ông Ngô Minh Tân có đơn khiếu nại gửi
UBND tỉnh.
Qua kết quả thẩm tra, xác minh của cơ quan chức năng, UBND tỉnh kết luận
như sau:
Thứ nhất: Đối với đất: Toàn bộ thửa đất 11B, diện tích 575m2 là đất do UBND xã An Hiệp quản lý và cho
ông Ngô Minh Tân thuê. Do đó, việc ông Ngô Minh Tân khiếu nại đòi bồi thường 150m2/523,6m2
đất bị ảnh hưởng Dự án là
không có cơ sở để xem xét giải quyết theo quy định tại điểm đ,
khoản 1, Điều 43 Luật Đất đai năm 2003 quy định những trường hợp thu hồi đất mà
không bồi thường (nay là khoản 2 Điều 82 Luật Đất đai năm 2013 quy định trường
hợp Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường về đất).
Thứ hai: Đối với công trình (quán cơm Tân Mai), ông Ngô Minh
Tân đề nghị:
Hỗ trợ 40% giá trị công trình số II và số III theo điểm b, khoản 3, Điều 22 Quyết định số
10/2013/QĐ-UBND ngày 23/4/2013 của UBND tỉnh là không có cơ sở xem xét giải quyết
theo quy định của pháp luật. Vì, ông Ngô
Minh Tân đã xây dựng công trình kiên cố, vi phạm hợp đồng thuê đất và khi xây
dựng bị Thanh tra giao thông V.03 lập biên bản vi phạm hành
chính trình Khu
quản lý đường bộ V ra
Quyết định số 62/QĐ-XP ngày 30/9/2002 xử phạt vi phạm hành
chính, buộc ông Tân tháo dỡ, di dời
phần sửa chữa vượt cấp,
nhưng ông Tân không chấp hành.
Hỗ trợ 80% giá
trị công trình không bị xử lý vi phạm hành chính theo điểm a, khoản 3, Điều 22 Quyết định số 10/2013/QĐ-UBND ngày
23/4/2013 của UBND tỉnh là không có cơ sở xem xét giải quyết theo quy định của pháp
luật. Vì, các công trình số I, công trình phụ (nhà bếp, nhà tạm, nhà tắm,
nhà vệ sinh...) được
xây dựng từ năm 2002 - 2003 trên đất không đủ điều kiện bồi thường về đất, khi
xây dựng vi phạm hành lang Quốc lộ 1 nên không đủ điều kiện hỗ trợ 80%, nhưng
đủ điều kiện hỗ trợ 40% theo quy định tại điểm b, khoản 3 Điều 22 Quyết định số
10/2013/QĐ-UBND ngày 23/4/2013 của UBND tỉnh quy định: “Nhà,
công trình khác xây dựng trước ngày 01/7/2004 trên đất không đủ điều kiện được
bồi thường về đất theo quy định tại Điều 8 của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP, mà
khi xây dựng vi phạm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cấp có thẩm quyền
công bố, cắm mốc hoặc vi phạm hành lang bảo vệ công trình đã được cắm mốc thì
được hỗ trợ 40% mức bồi thường quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 11 của Quy
định này” (Nay là điểm b, khoản 6,
Điều 25 Quyết định số 57/2014/QĐ-UBND ngày 30/12/2014 của UBND tỉnh quy định: “Tài sản gắn liền với đất được tạo lập trái
quy định của pháp luật từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004 …; trường
hợp không có văn bản của cơ quan có thẩm quyền không được tạo lập thì được hỗ
trợ bằng 65% mức bồi thường”).
Thứ ba: Đối với việc khiếu nại đòi bồi
thường chi phí đầu tư vào đất là không có cơ sở xem xét giải quyết theo quy
định của pháp luật. Vì, ông Ngô Minh Tân thuê đất với thời hạn 01 năm, sử dụng
không đúng với mục đích sử dụng đất là “xây dựng lều quán tạm”, từ năm
2005 đến khi thực hiện Dự án không được UBND xã An Hiệp cho thuê đất nên không
thuộc trường hợp bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại theo quy định tại
điểm a, điểm b khoản 2 Điều 5 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 Quy
định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi
đất, giao đất, cho thuê đất:
a) Tiền sử dụng đất của thời hạn
chưa sử dụng đất trong trường hợp giao đất có thời hạn, tiền thuê đất đã nộp
trước cho thời hạn chưa sử dụng đất (có chứng từ hóa đơn nộp tiền);
b) Các khoản chi phí san lấp mặt
bằng, chi phí tôn tạo đất được giao, được thuê và phù hợp với mục đích sử dụng
đất. Trường hợp thu hồi đất mà đã được bồi thường về đất thì không được bồi
thường chi phí san lấp mặt bằng, chi phí tôn tạo đất”.
Nay là khoản 1 Điều 76 Luật Đất đai năm 2013 và khoản 2 Điều 3 Nghị định
số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ Quy định về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất:
- Khoản 1 Điều 76 Luật Đất đai năm 2013 quy định các trường hợp không được
bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà
nước thu hồi đất bao gồm:
a) Đất được Nhà nước giao không thu
tiền sử dụng đất, trừ trường hợp đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho hộ gia
đình, cá nhân quy định tại khoản 1 Điều 54 của Luật này;
b) Đất được Nhà nước giao cho tổ
chức thuộc trường hợp có thu tiền sử dụng đất nhưng được miễn tiền sử dụng đất;
c) Đất được Nhà nước cho thuê trả
tiền thuê đất hàng năm; đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian
thuê nhưng được miễn tiền thuê đất, trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng
đất thuê do thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng;
d) Đất nông nghiệp thuộc quỹ đất
công ích của xã, phường, thị trấn;
đ) Đất nhận khoán để sản xuất nông
lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối”.
- Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
phủ: “Chi phí đầu tư vào đất còn lại là
các chi phí mà người sử dụng đất đã đầu tư vào đất phù hợp với mục đích sử dụng
đất nhưng đến thời điểm cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất
còn chưa thu hồi hết…”.
Từ những cơ sở trên, UBND tỉnh công nhận một phần nội dung đơn khiếu nại đề ngày 10/10/2015 của ông Ngô Minh Tân về việc đề nghị
hỗ trợ công trình xây dựng không bị xử lý vi phạm hành chính.
Không công nhận một phần nội dung Quyết định số 1168/QĐ-CT ngày 17/9/2015 của Chủ tịch
UBND huyện Tuy An về việc không hỗ trợ công trình xây dựng không bị xử lý vi
phạm hành chính.
UBND tỉnh yêu cầu Chủ tịch UBND huyện Tuy An chỉ đạo Trung tâm Phát
triển quỹ đất huyện Tuy An phối hợp với UBND xã An Hiệp cùng ông Ngô Minh Tân
xác định các hạng mục công trình không bị xử lý vi phạm hành chính và thực tế
đã giải phóng mặt bằng để lập phương án hỗ trợ theo đúng quy định của pháp
luật.
UBND xã An Hiệp kiểm tra chỉnh lý hồ sơ đất đai và quản lý khu đất này
theo đúng quy định của pháp luật.
Đây là Quyết định giải quyết khiếu nại lần 2. Nếu ông Ngô Minh Tân không
đồng ý với Quyết định này thì Ông có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa
án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
Mỹ Luận