Dự Hội nghị có Phó Chủ
tịch thường trực UBND tỉnh Phú Yên Lê Văn Trúc.
|
Quang cảnh tại Hội nghị
sáng 30/3 |
Báo cáo sơ kết tại Hội
nghị cho biết: Ngày 16/9/2010, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát
triển Thủy sản Việt Nam đến năm 2020 với 26 nhiệm vụ cụ thể. Qua ba năm thực
hiện, ngành thủy sản đã hoàn thành 18 nhiệm vụ, 6 nhiệm vụ đang trong quá trình
xem xét phê duyệt, 2 nhiệm vụ đang tiếp tục xây dựng (trong đó có việc xây dựng
Luật Thủy sản sửa đổi, thời hạn trình 2015).
Đánh giá về những chuyển
biến và đóng góp của ngành thủy sản cho nền kinh tế, ông Nguyễn Huy Điền, Phó
Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho
rằng, mặc dù trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm, kinh tế trong nước gặp
nhiều khó khăn về thị trường và vốn nhưng ngành thủy sản vẫn tiếp tục duy trì
tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm khá cao, nhất là trong 3 năm qua. Thống
kê hằng năm và sơ bộ thực hiện năm 2013, giá trị sản xuất (giá so sánh năm
2010) thời kỳ 2011-2013 của ngành đạt mức tăng trưởng bình quân 4,85%/năm,
trong đó giá trị sản xuất khai thác đạt 5,94%/năm và nuôi trồng đạt 4,16%/năm.
Lĩnh vực thủy sản đã từng bước chuyển dịch cơ cấu theo hướng giảm dần tỷ trọng
sản lượng khai thác, tăng sản lượng và giá trị thủy sản nuôi, đang đóng góp
quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp.
Sự phát triển mạnh mẽ
của ngành thủy sản đã đưa Việt Nam trở thành nước đứng đầu thế giới về sản
lượng cá tra, đứng thứ 3 về sản lượng tôm và sản phẩm thủy sản Việt Nam tiếp
tục mở rộng thị trường, đến tháng 9/2013 đã có mặt tại 156 quốc gia và vùng
lãnh thổ, tăng 16 thị trường so với năm 2010. Thị trường chính là EU, Hoa Kỳ,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Theo đánh giá của các
đại biểu tham dự Hội nghị, sau 3 năm thực hiện Chiến lược phát triển Thủy sản,
đến nay mặt được nổi bật nhất là các quan điểm, định hướng Chiến lược được
khẳng định thông qua thực tế sản xuất; trong đó sản phẩm thủy sản tiếp tục duy
trì uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế; chất lượng sản phẩm
và hiệu quả sản xuất thủy sản góp phần bảo đảm nhu cầu thực phẩm của người dân
và tốc độ tăng trưởng toàn ngành nông nghiệp.
Cùng với đó, các mục
tiêu đang được Bộ NN&PTNN bám sát thực hiện và đến năm 2013 đã có 9 tiêu
chí cơ bản đến năm 2015 (tại Kế hoạch 2011-2015) đã đạt được. Công tác chỉ đạo
thực hiện các nội dung của Chiến lược cũng khá kịp thời, bám sát quan điểm chỉ
đạo của Đảng và Chính phủ về biến đổi khí hậu, kinh tế, ngoại giao, an ninh
quốc phòng trong nước và quốc tế trong bối cảnh có nhiều thay đổi...
Tuy nhiên, theo các đại
biểu, bên cạnh các kết quả đạt được, ngành thủy sản phát triển chưa thể hiện
tính bền vững, cụ thể là các chỉ tiêu đạt và vượt chủ yếu về lượng; tỷ trọng
sản phẩm giá trị cao còn thấp; hiệu quả khai thác hải sản chưa cao; thu nhập
của lao động nghèo trong ngành thủy sản chưa chuyển biến rõ néti; mức độ chuyển
dịch cơ cấu nội ngành giai đoạn 2010-2013 chậm (tỷ trọng sản lượng nuôi trồng
thủy sản trong tổng sản lượng thủy sản tăng 2,2% trong 3 năm; tỷ trọng gia tăng
sản xuất nuôi trồng thủy sản trong giá trị sản xuất thủy sản giảm 2% trong giai
đoạn 2010-2013); tỷ lệ tàu công suất thấp còn lớn (dưới hoặc bằng 90CV chiếm
75,6%); chưa tạo được liên kết trong chuỗi sản xuất, chưa xây dựng được thương
hiệu sản phẩm quốc gia và chỉ dẫn đại lý đối với sản phẩm thủy sản chủ lực.
Về quy hoạch tổng thể
phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, ông Nguyễn Huy Điền,
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho biết, ngày 16/8/2013 Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt Quy hoạch trên tại Quyết định số 1445/QĐ-TTg. Trong đó, các
điểm trọng tâm bố trí quy hoạch theo 6 vùng sinh thái: Trung du miền núi phía
Bắc, Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam bộ và đồng bằng
Sông Cửu Long cùng 9 đối tượng chủ lực gồm: Tôm sú, tôm chân trắng, cá tra, cá
rô phi, tôm càng xanh, nhóm cá biển, nhóm nhuyễn thể, nhóm rong biển, tôm hùm.
Đồng thời, Quy hoạch
tổng thể này cũng cho biết sẽ xây dựng 6 trrung tâm nghề cá gắn với ngư trường
trọng điểm và vùng nuôi trồng thủy sản lớn nhất cả nước gồm: Trung tâm nghề cá
Hải Phòng, Trung tâm nghề cá Đà Nẵng, Trung tâm nghề cá Khánh Hóa, Trung tâm
nghề cá Bà Rịa - Vũng Tàu, Trung tâm nghề cá Kiên Giang và Trung tâm nghề cá
Cần Thơ (gắn với vùng phát triển nuôi trồng thủy sản Đồng bằng Sông Cửu Long).
Cũng tại Hội nghị, Bộ
NN&PTNT đã công bố Đề án tái cấu trúc ngành thủy sản theo hướng nâng cao
giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Trong đó, nêu rõ các giải pháp chính
trong tái cơ cấu ngành thủy sản. Cụ thể, trong nuôi trồng thủy sản lựa chọn đối
tượng nuôi chủ lực và tập trung sản xuất thâm canh tôm sú, tôm thẻ chân trắng,
cá tra, cá rô phi, nhuyễn thể; tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm, từ
ao nuôi đến thị trường tiêu thụ, trong đó doanh nghiệp thu mua, chế biến, tiêu
thụ đóng vai trò hạt nhân liên kết và tổ chức chuỗi; thực hiện các giải pháp đột
phá theo hướng kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ các yếu tố đầu vào cho nuôi trồng,
đặc biệt là chất lượng thức ăn, con giống và sản phẩm xử lý, cải tạo môi
trường, đồng thời áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc theo chuỗi giá trị sản
phẩm nhằm nâng cao chất lượng, bảo đảm quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm
phù hợp với các cam kết quốc tế.
Trong khai thác hải sản,
sẽ điều tra nguồn lợi để đánh giá nguồn lợi và thu thập thông tin dự báo ngư
trường; sản xuất theo chuỗi bằng việc xây dựng mối liên kết trong sản xuất,
kinh doanh thủy sản; cơ cấu khai thác ven bờ theo hướng giảm tỷ trọng sản lượng
khai thác ven bờ từ 52% (tương đương 2,1 triệu tấn) hiện nay xuống còn khoảng
36,4% (tương đượng 0,8 triệu tấn) vào năm 2020, đồng thời tăng sản lượng khai
thác xa bờ từ 48% (tương đương 1 triệu tấn) lên khoảng 63,6% (tương đương 1,4
triệu tấn) vào năm 2020; tăng nguồn vốn tín dụng dài hạn (cho vay hiện đại hóa
tàu cá), trung hạn (hỗ trợ ngư dân trang bị thiết bị thông tin liên lạc để hạn
chế rủi ro trong quá trình sản xuất trên biển) và ngắn hạn (chính sách bảo hiểm
đối với ngư dân).
(Theo dangcongsan.vn)