Trong đó, mức thu tiền
cấp quyền khai thác khoáng sản cho vật liệu xây dựng thông thường dùng cho san
lấp (đá, cát, đất) là 5%; than bùn và các loại vật liệu xây dựng thông thường
còn lại là 4%; cát trắng, sét chịu lửa là 3%; đá ốp lát gốc 1%; khoáng sản vật
liệu xây dựng còn lại là 2%; titan sa khoáng ven biển là 3%; đá vôi,
secpentin là 3%; các khoáng sản kim loại còn lại là 2%; nhóm khoáng sản đá quý,
đá bán quý là 2%; nhóm khoáng sản nước nóng, nước khoáng và khí CO2 là 2%. Giá
tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được xác định theo giá tính thuế tài
nguyên do UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng, công bố và
tại thời điểm tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản còn hiệu lực.
Cụ thể, mỗi loại
khoáng sản trong một khu vực khai thác khoáng sản chỉ áp dụng một mức giá tính
tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Trường hợp trong một khu vực khai thác
khoáng sản, sản phẩm sau khai thác có nhiều loại và mỗi loại có mức giá khác
nhau, thì áp dụng giá trị trung bình các mức giá. Đối với loại khoáng sản chưa có
giá tính thuế tài nguyên hoặc phải điều chỉnh giá tính thuế tài nguyên do không
còn phù hợp theo quy định, Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với
các cơ quan liên quan xây dựng giá; Sở Tài chính thẩm định, trình UBND cấp tỉnh
phê duyệt.
Theo Nghị định, Về
phương thức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, Nghị định quy định nộp 1
lần bằng 100% tổng số tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với các trường
hợp: Thời gian khai thác còn lại trong Giấy phép khai thác hoặc cấp mới bằng
hoặc dưới 5 năm; tổng giá trị tiền cấp quyền khai thác khoáng sản bằng hoặc nhỏ
hơn 1 tỷ đồng.
Các trường hợp còn
lại có thể nộp nhiều lần.
Thời điểm nộp tiền
cấp quyền khai thác khoáng sản chậm nhất lần đầu là 90 ngày tính từ ngày
nhận được thông báo của Cục thuế địa phương; thời điểm các lần sau chậm nhất là
ngày 31 tháng 3 các năm tiếp theo. Sau các thời điểm này, ngoài số tiền phải
nộp theo thông báo, tổ chức, cá nhân còn phải nộp tiền phạt theo quy định của
pháp luật về quản lý thuế.
Trường hợp trữ lượng
khoáng sản được cấp phép lớn, thời gian khai thác còn lại và công suất khai
thác trung bình hàng năm không thể hết phần trữ lượng chưa khai thác; tổ chức,
cá nhân có thể xin điều chỉnh Giấy phép khai thác về công suất hoặc trữ lượng.
Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản thực hiện theo Giấy phép khai thác hiện
hành và được điều chỉnh phù hợp khi Giấy phép khai thác thay thế có hiệu lực
pháp luật.
Nghị định này có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 20/01/2014 và bãi bỏ Điều 42 Nghị định số
15/2012/NĐ-CP, ngày 09/3/2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Khoáng sản./.
(Theo chinhphu.vn)