|
Ảnh minh họa |
Cụ thể, bên mua điện phải có đủ năng lực
hành vi dân sự theo quy định của pháp luật và có giấy đề nghị mua điện kèm theo
bản sao của một trong các giấy tờ sau: Hộ khẩu thường trú, hoặc sổ tạm trú;
giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở hoặc quyết định phân nhà; hợp đồng mua bán
nhà hợp lệ; hợp đồng thuê nhà có thời hạn từ 1 năm trở lên; Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (trên đất đã có nhà ở); Hợp đồng ủy quyền quản lý và sử dụng
nhà được công chứng hoặc chứng thực.
Bên bán
điện có lưới điện phân phối đủ khả năng cung cấp điện đáp ứng nhu cầu của bên
mua điện.
Bên bán
điện phải ký hợp đồng và cấp điện cho bên mua điện trong thời hạn 7 ngày làm
việc khi có đủ các điều kiện quy định trên.
Trường
hợp chưa có lưới điện phân phối hoặc lưới điện phân phối bị quá tải có xác nhận
của cơ quan Điều tiết điện lực hoặc cơ quan được ủy quyền, bên bán điện phải
trả lời cho bên mua điện trong thời hạn 5 ngày làm việc trong đó nêu rõ thời
hạn dự kiến cấp điện được.
Thực
hiện bảo đảm hợp đồng nếu tiêu thụ điện từ 1 triệu kWh/tháng trở lên
Bên cạnh
quy định điều kiện ký hợp đồng mua bán điện phục vụ mục đích sinh hoạt, Nghị
định cũng quy định cụ thể việc bảo đảm thực hiện hợp đồng mua bán điện. Theo
đó, bên mua điện là khách hàng sử dụng điện có sản lượng điện tiêu thụ bình
quân từ 1.000.000 kWh/tháng trở lên có trách nhiệm thực hiện biện pháp bảo đảm
thực hiện hợp đồng trước khi hợp đồng mua bán điện có hiệu lực.
Giá trị
bảo đảm thực hiện hợp đồng do các bên mua, bán điện thỏa thuận, nhưng không
vượt quá 15 ngày tiền điện, được tính trên cơ sở sản lượng điện tiêu thụ trung
bình tháng đăng ký trong hợp đồng mua bán điện và giá điện năng giờ bình thường
được áp dụng.
Biện
pháp, hình thức, hiệu lực bảo đảm, quyền và nghĩa vụ trong việc bảo đảm do các
bên thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng mua bán điện; khuyến khích thực hiện biện
pháp bảo lãnh qua ngân hàng.
Bên bán
điện có quyền ngừng cấp điện cho bên mua điện trong trường hợp bên mua điện
không thực hiện biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, không duy trì biện pháp
bảo đảm thực hiện hợp đồng.
Quy định
về bảo đảm thực hiện hợp đồng mua bán điện không áp dụng đối với các hợp đồng
mua bán điện đã có hiệu lực trước thời điểm Nghị định này có hiệu lực (ngày
10/12/2013), trừ các hợp đồng mua bán điện mà hai bên đã có thỏa thuận về bảo
đảm thực hiện hợp đồng.
Khuyến khích thanh toán tiền điện thông qua hệ thống ngân
hàng
Về đo đếm điện năng, Điều 16 Nghị
định quy định, khi thay đổi thiết bị đo đếm điện, bên mua và bên bán điện cùng
ký biên bản xác nhận thông số kỹ thuật của thiết bị đo đếm điện và chỉ số công
tơ điện. Trường hợp thiết bị đo đếm điện bị mất hoặc hư hỏng, thì hai bên lập
biên bản để xác định nguyên nhân và trách nhiệm của các bên. Trường hợp không
xác định được nguyên nhân do lỗi của bên mua điện, thì bên bán điện có trách
nhiệm sửa chữa hoặc thay thế thiết bị đo đếm điện mới và tiếp tục cấp điện cho
bên mua.
Về ghi chỉ số công tơ điện, đối với
việc mua bán điện sử dụng ngoài mục đích sinh hoạt, việc ghi chỉ số công tơ
điện như sau: dưới 50.000kWh/tháng ghi chỉ số 1 lần mỗi tháng. Từ
50.000-100.000kWh/tháng, ghi chỉ số 2 lần trong một tháng; trên 100.000kWh
điện, ghi chỉ số 3 lần trong một tháng. Đối với bên mua điện sử dụng điện năng
ít hơn 15 kWh/tháng, chu kỳ ghi chỉ số công tơ do hai bên thỏa thuận.
Về thanh toán tiền điện, nghị định
nêu rõ, trường hợp bên mua điện sử dụng điện trong thời gian hệ thống thiết bị
đo đếm điện bị hư hỏng làm cho công tơ điện ngừng hoạt động, tiền điện phải
thanh toán được tính theo điện năng bình quân ngày của 3 chu kỳ ghi chỉ số công
tơ điện liền kề trước đó nhân với số ngày thực tế sử dụng điện. Chính phủ
khuyến khích thanh toán tiền điện thông qua hệ thống ngân hàng, tại địa điểm thu
tiền điện của bên bán điện.
(tổng hợp từ chinhphu.vn,
dangcongsan.vn)