|
Hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản
đặc biệt khó khăn được hỗ trợ tạo quỹ đất sản xuất - Ảnh minh họa |
Thủ tướng Chính phủ vừa phê
duyệt chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào
dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, phấn đấu
đến hết năm 2015 giải quyết được 70% số hộ thiếu đất ở, đất sản xuất; cơ bản
giải quyết tình trạng thiếu nước sinh hoạt cho những hộ này.
Đối tượng áp dụng là hộ đồng bào
dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn theo
tiêu chí hộ nghèo sinh sống bằng nghề nông, lâm nghiệp chưa có hoặc chưa đủ đất
ở, đất sản xuất theo định mức quy định tại địa phương, có khó khăn về nước sinh
hoạt; chưa được hưởng các chính sách về đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt.
Hỗ trợ tạo quỹ đất sản xuất 15
triệu đồng/hộ
Về hỗ trợ đất sản xuất, tại những
nơi còn quỹ đất thì được hỗ trợ trực tiếp bằng tiền và được vay vốn
từ Ngân hàng Chính sách xã hội để tạo quỹ đất. Mức hỗ trợ từ ngân sách
Trung ương và vay vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội cho mỗi hộ để tạo
quỹ đất sản xuất bình quân 30 triệu đồng/hộ. Trong đó, ngân sách Trung ương
hỗ trợ 15 triệu đồng/hộ và được vay tín dụng tối đa không quá 15 triệu
đồng/hộ, thời gian vay 5 năm với mức lãi suất bằng 0,1%/tháng, tương đương
với 1,2%/năm.
Quỹ đất sản xuất để giao cho đồng
bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo bao gồm: Đất Nhà nước quy hoạch để hỗ
trợ cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo theo quy định tại Quyết
định này; đất thu hồi từ các nông, lâm trường và các doanh nghiệp, tổ chức sau
khi sắp xếp lại theo Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 16/6/2003 của Bộ Chính trị về
tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh; đất khai
hoang phục hoá, đất được hiến, mua, chuyển nhượng tự nguyện; đất thu hồi từ các
trường hợp vi phạm pháp luật về đất đai và các nguồn khác.
Những nơi không còn quỹ đất để
giao đất sản xuất cho các hộ thì được hỗ trợ để chuyển đổi sang
một trong các hình thức: Hỗ trợ chuyển đổi nghề; hỗ trợ xuất khẩu lao động
hoặc giao khoán bảo vệ rừng và trồng rừng.
Trong đó, về hỗ trợ chuyển đổi nghề,
đối với những hộ có lao động học nghề để chuyển đổi nghề thì được ngân sách
Trung ương hỗ trợ tối đa 4 triệu đồng/lao động; mức hỗ trợ cho từng lao động cụ
thể căn cứ vào học phí, ngành nghề và thời gian học thực tế của lao động do Chủ
tịch UBND cấp tỉnh quyết định.
Những hộ có lao động, có nhu cầu vốn
để mua sắm nông cụ, máy móc làm dịch vụ sản xuất nông nghiệp hoặc cần vốn để
làm các nghề khác, tăng thu nhập, thì được ngân sách Trung ương hỗ trợ 5 triệu
đồng/hộ và được vay vốn tín dụng tối đa không quá 15 triệu đồng/hộ, thời gian
vay 5 năm với mức lãi suất bằng 0,1%/tháng tương đương 1,2%/năm.
Những hộ, lao động chuyển đổi nghề,
ngoài việc được hưởng các chính sách nêu trên, còn được hưởng các chính sách ưu
đãi liên quan về dạy nghề theo quy định hiện hành. Ngoài mức hỗ trợ này, từng
địa phương tùy theo khả năng nguồn ngân sách mà quyết định mức hỗ trợ thêm.
Giao diện tích đất ở bình quân 200 m2/hộ
Ngoài hỗ trợ đất sản xuất, các hộ
còn được hỗ trợ về đất ở. Cụ thể, mức giao diện tích đất ở cho mỗi hộ bình
quân 200 m2/hộ. UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
trách nhiệm tự cân đối quỹ đất và ngân sách để giao đất cho các hộ làm nhà ở.
Quyết định cũng quy định cụ thể mức
hỗ trợ nước sinh hoạt. Theo đó, các hộ dân tộc thiểu số nghèo, hộ nghèo ở
các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn có khó khăn về nước sinh hoạt sẽ được
Nhà nước hỗ trợ bình quân 1,3 triệu đồng/hộ để xây dựng bể chứa nước, đào giếng
nước hoặc tự tạo nguồn nước sinh hoạt.
Đối với nước sinh hoạt tập
trung, sẽ đầu tư xây dựng những công trình nước sinh hoạt ở thôn theo đề án
thuộc Quyết định số 1592/QĐ-TTg
ngày 12/10/2009 của Thủ tướng Chính phủ đã được phê duyệt. Tổng mức đầu tư cho
một công trình, chủ đầu tư căn cứ vào tình hình thực tế để phê duyệt dự án đầu
tư; trong đó, ngân sách Trung ương hỗ trợ bình quân 1,3 tỷ đồng/công trình.
Theo Quyết định
09/2011/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo mới áp dụng cho
giai đoạn 2011 - 2015, hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân
từ 400.000 đồng/người/tháng (từ 4,8 triệu đồng/người/năm) trở xuống; hộ nghèo
ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng (từ 6
triệu đồng/người/năm) trở xuống. |
(Nguồn: chinhphu.vn)