|
Ảnh minh họa |
Nghị định này quy định chi tiết về việc tiếp công dân tại các cơ quan
thuộc Chính phủ, đơn vị sự nghiệp công lập; nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức
của các Ban Tiếp công dân, việc bố trí cơ sở vật chất của Trụ sở tiếp công dân;
quy chế phối hợp hoạt động tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân; việc bố trí
cơ sở vật chất của địa điểm tiếp công dân; các điều kiện bảo đảm cho hoạt động
tiếp công dân.
Công khai lịch tiếp dân
Nghị định quy định tùy theo tính chất, đặc điểm, quy mô về tổ chức và
hoạt động, yêu cầu của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ phải bố trí công chức thanh tra làm
nhiệm vụ tiếp công dân.
Ngoài ra, đơn vị sự nghiệp công lập có liên quan đến việc giải quyết chế
độ, chính sách, quyền lợi của công dân, tổ chức phải tổ chức tiếp công dân đến
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công
lập có trách nhiệm bố trí công chức, viên chức của bộ phận chuyên môn làm nhiệm
vụ tiếp công dân.
Người đứng đầu cơ quan thuộc Chính phủ, đơn vị sự nghiệp công lập phải
trực tiếp thực hiện việc tiếp công dân ít nhất 1 ngày trong 1 tháng tại địa
điểm tiếp công dân của cơ quan, đơn vị mình.
Đối với trường hợp gặp vụ việc gay gắt, phức tạp, có nhiều người tham
gia, liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc ý kiến
của các cơ quan, tổ chức, đơn vị còn khác nhau; vụ việc nếu không chỉ đạo, xem
xét kịp thời có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc có thể dẫn đến hủy hoại
tài sản của Nhà nước, của tập thể, xâm hại đến tính mạng, tài sản của nhân dân,
ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội thì người đứng đầu cơ
quan thuộc Chính phủ, đơn vị sự nghiệp công lập phải thực hiện tiếp công dân đột
xuất.
Khi tiếp công dân, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải có ý kiến trả lời
về việc giải quyết vụ việc cho công dân. Trường hợp chưa trả lời ngay được thì
chỉ đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý
của mình kịp thời xem xét, giải quyết và thông báo cho công dân biết thời gian
trả lời.
Nghị định cũng quy định, lịch tiếp công dân của các cơ quan, tổ chức
tham gia tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân phải được niêm yết công khai.
Người tiếp công dân có trách nhiệm tiếp công dân theo lịch tiếp công dân đã
được công bố. Trường hợp tiếp công dân đột xuất thực hiện theo sự phân công của
Trưởng Ban Tiếp công dân hoặc theo yêu cầu của lãnh đạo cơ quan, tổ chức mình.
Kiểm tra trách nhiệm cơ quan chậm giải quyết khiếu nại, tố cáo
Nghị định quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu, tổ chức của Ban
Tiếp công dân các cấp Trung ương, tỉnh, huyện; đồng thời cũng quy định cụ
thể quy chế phối hợp hoạt động tiếp công dân tại trụ sở tiếp công dân.
Theo đó, Ban tiếp công dân có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có
thẩm quyền giải quyết kịp thời, đúng thời hạn quy định đối với các vụ việc
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh do Ban Tiếp công dân chuyển đến.
Trường hợp đã được yêu cầu nhưng vụ việc chậm được giải quyết hoặc không
được giải quyết thì Trưởng Ban Tiếp công dân trung ương báo cáo Tổng thanh tra
Chính phủ, Trưởng Ban Tiếp công dân cấp tỉnh, cấp huyện báo cáo Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cùng cấp quyết định kiểm tra trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị,
cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết vụ việc đó.
Chính sách bồi dưỡng cán bộ tiếp dân
Về Chính sách, chế độ đối với người tiếp công dân, Nghị định quy định
chế độ bồi dưỡng được tính theo ngày cán bộ, công chức làm nhiệm vụ tiếp công
dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại Trụ sở tiếp công
dân hoặc địa điểm tiếp công dân.
Các đối tượng khác, chế độ bồi dưỡng được tính theo ngày làm việc thực
tế của cán bộ, công chức làm nhiệm vụ tiếp công dân, xử lý đơn khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh.
Nghị định này có hiệu lực từ ngày 15/8/2014.
(Theo chinhphu.vn)