|
Ảnh minh họa |
Thông tư quy định rõ trường hợp tinh giản biên chế
quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 6 Nghị định 108/2014/NĐ-CP.
Theo đó, cán bộ, công chức, viên chức trong biên chế
và cán bộ, công chức cấp xã hưởng lương từ ngân sách Nhà nước hoặc quỹ tiền
lương của đơn vị sự nghiệp theo quy định của pháp luật (gọi chung là cán bộ;
công chức, viên chức) có 02 năm liên tiếp liền kề tại thời điểm xét tinh giản
biên chế, mỗi năm có tổng số ngày nghỉ làm việc tối thiểu bằng số ngày nghỉ tối
đa do ốm đau theo quy định tại Khoản 1 Điều 23 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006,
Khoản 1 Điều 26 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, có xác nhận của cơ sở khám chữa
bệnh và cơ quan Bảo hiểm xã hội chi trả trợ cấp ốm đau theo quy định hiện hành,
cụ thể như sau:
Những người làm việc trong điều kiện bình thường và
có thời gian đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm, mỗi năm có tổng số ngày nghỉ làm
việc là 30 ngày.
Những người làm việc trong điều kiện bình thường và
có thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm, mỗi năm có tổng
số ngày nghỉ làm việc là 40 ngày.
Những người làm việc trong điều kiện bình thường và
có thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 30 năm trở lên, mỗi năm có tổng số ngày
nghỉ làm việc là 60 ngày.
Những người làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc làm việc thường xuyên
ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên và có thời gian đóng bảo hiểm xã
hội dưới 15 năm, mỗi năm có tổng số ngày nghỉ làm việc là 40 ngày.
Những người làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc làm việc thường xuyên
ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên và có thời gian đóng bảo hiểm xã
hội từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm, mỗi năm có tổng số ngày nghỉ làm việc là 50
ngày.
Những người làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc làm việc thường xuyên
ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên và có thời gian đóng bảo hiểm xã
hội từ đủ 30 năm trở lên, mỗi năm có tổng số ngày nghỉ làm việc là 70 ngày.
Chính sách về hưu trước tuổi
Theo Thông tư, những người thuộc đối tượng tinh giản
biên chế quy định tại Điều 6 Nghị định số 108/2014/NĐ-CP, nếu đủ 50 tuổi đến đủ
53 tuổi đối với nam, đủ 45 tuổi đến đủ 48 tuổi đối với nữ, có thời gian đóng
bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên, trong đó có đủ mười lăm năm làm nghề hoặc
công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành
hoặc có đủ mười lăm năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên,
được hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và
không bị trừ tỷ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi.
Ngoài ra còn được hưởng các chế độ sau: Được trợ cấp
03 tháng tiền lương cho mỗi năm (đủ 12 tháng) nghỉ hưu trước tuổi so với quy
định về tuổi tối thiểu tại Điểm b Khoản 1 Điều 50 Luật Bảo hiểm xã hội năm
2006, Điểm b Khoản 1 Điều 54 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; được trợ cấp 05
tháng tiền lương cho 20 năm đầu công tác có đóng đủ bảo hiểm xã hội; được trợ
cấp 1/2 tháng tiền lương cho mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội (đủ 12
tháng) kể từ năm thứ 21 trở đi.
Về chính sách chuyển sang làm việc tại các tổ chức không hưởng lương
thường xuyên từ ngân sách Nhà nước, Thông tư quy định
những người thuộc đối tượng tinh giản biên chế quy định tại Điều 6 Nghị định số
108/2014/NĐ-CP chuyển sang làm việc tại các tổ chức không hưởng lương thường
xuyên từ ngân sách Nhà nước, được hưởng các khoản trợ cấp sau: Được trợ cấp 03
tháng tiền lương hiện hưởng; được trợ cấp 1/2 tháng tiền lương cho mỗi năm công
tác có đóng bảo hiểm xã hội (đủ 12 tháng).
Đối với chính sách thôi việc ngay, những người thuộc
đối tượng tinh giản biên chế quy định tại Điều 6 Nghị định số 108/2014/NĐ-CP có
tuổi đời dưới 53 tuổi đối với nam, dưới 48 tuổi đối với nữ và không đủ điều
kiện để hưởng chính sách về hưu trước tuổi theo quy định, nếu thôi việc ngay
thì được hưởng các khoản trợ cấp sau: Được trợ cấp 03 tháng tiền lương hiện
hưởng để tìm việc làm; được trợ cấp 1,5 tháng tiền lương cho mỗi năm công tác
có đóng bảo hiểm xã hội (đủ 12 tháng).
Về chính sách thôi việc sau khi đi học nghề, những người thuộc đối tượng tinh giản biên chế quy định tại
Điều 6 Nghị định số 108/2014/NĐ-CP có tuổi đời dưới 45 tuổi, có sức khỏe, tinh
thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật, có nguyện vọng đi học nghề để tự
tìm việc làm mới, thì được hưởng các chế độ sau: Được hưởng nguyên tiền lương
tháng hiện hưởng và được cơ quan, đơn vị đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
trong thời gian đi học nghề, nhưng thời gian hưởng tối đa là 06 tháng; được trợ
cấp một khoản kinh phí học nghề bằng chi phí cho khóa học nghề tối đa là 06
tháng tiền lương hiện hưởng để đóng cho cơ sở dạy nghề; sau khi kết thúc học
nghề được trợ cấp 03 tháng lương hiện hưởng tại thời điểm đi học để tìm việc
làm; được trợ cấp 1/2 tháng tiền lương cho mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã
hội (đủ 12 tháng).
Trong thời gian đi học nghề được tính thời gian công
tác liên tục nhưng không được tính là thời gian thâm niên để nâng lương hàng
năm.
Thông tư cũng nêu rõ, Bộ trưởng, người đứng đầu cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức do Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ thành lập mà không phải là đơn vị sự nghiệp công lập và Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm xây dựng kế hoạch
tinh giản biên chế trong từng năm, 7 năm và tổ chức triển khai thực hiện, trong
đó phải xác định tỷ lệ tinh giản biên chế đến năm 2021 tối thiểu 10% biên chế
của Bộ, ngành, địa phương được giao năm 2015.
Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 30/5/2015 và có hiệu lực đến hết ngày 31/12/2021. Các chế độ, chính sách
quy định tại Thông tư liên tịch này được tính hưởng kể từ ngày 10/01/2015.
(Theo Chinhphu.vn)